Kinh tế Nhà_Liêu

Khiết Đan vốn là dân tộc du mục, săn bắn đánh cá làm thức ăn, lấy da lông làm y phục, dẫn ngựa tìm nguồn nước và cỏ, uống sữa của chúng. Các nhược điểm về kinh tế của dân tộc du mục nói chung đã được giải quyết trước khi người Khiết Đan lập quốc. Họ tạo ra các ốc đảo trong doanh trại ở khu vực du mục, đưa dân tộc trồng trọt di cư đến đó. Tổ phụ, cha và bá phụ của Liêu Thái Tổ là những người truyền nhập nông nghiệp và thủ công nghiệp đến người Khiết Đan, người Khiết Đan cũng tiếp thu nghề xe sợi dệt vải. Các địa phương của Liêu đều đặt ra 'quần mục sứ ty' để quản lý chăn nuôi gia súc. Hoàng đế Liêu khiến cho nông nghiệp và mục nghiệp cùng phát triển phồn vinh, lập ra một thể chế quản lý độc đáo tương đối hoàn chỉnh.[4]:64

Nông nghiệp

Trác Hiết đồ (một phần); miêu tả cảnh khả hãn, yên chi và bộ hạ tộc Khiết Đan tụ tập ăn uống sau khi ra ngoài săn bắn

Trong lãnh địa của Liêu, có nhiều loại nông sản, như lúa mạch, lúa gạo, lúa nếp, ngoài ra còn có rau dưa và hoa quả. Người Liêu học theo kỹ thuật nông nghiệp của Trung Nguyên, đưa vào các giống cây trồng từ Trung Nguyên, giống dưa hấu và đậu Hồi Cốt từ Hồi Hột; kết hợp với đặc điểm khí hậu phương bắc mà hình thành kỹ thuật vun trồng độc đáo. Đất đai triều Liêu có hai loại là công điền và tư điền. Tại vùng ven biên giới, Liêu cho thiết lập các đồn điền, về bản chất là công điền. Đất đai nhàn rỗi của quan lại mộ dân trồng cấy thì cũng được tính là công điền, bách tính gieo trồng sau 10 năm thì phải nộp tô thuế cho triều đình. Ước tính, đồn điền phần nhiều tập trung tại vùng ven biên giới phía bắc, tư điền lại tập trung nhiều ở vùng ven biên giới phía nam. Người Hán ở Liêu vẫn còn phương pháp sản xuất nam cày cấy, nữ dệt vải để duy trì thu nhập gia đình. Đồng thời, những người Hán bị quân Khiết Đan bắt trong chiến tranh bị cho đi an trí tại khu vực nội địa của người Khiết Đan, lập ra rất nhiều 'đầu hạ quân châu'. Trừ một phần nhỏ phải nộp lên trên, thu nhập còn lại đều quy về sở hữu của 'đầu hạ chủ'. Để khuyến khích nhân dân khai khẩn đất hoang, triều đình Liêu lập lệ rằng nếu khai khẩn đất ruộng thành công thì sẽ được miễn tô thuế trong 10 năm, hình thành nền kinh tế nông mục hỗn hợp đặc hữu Khiết Đan.[46]:125 Vào năm mất mùa đói kém, triều đình Liêu cũng giảm miễn thuế, như tháng 1 năm 991 thời Liêu Thánh Tông "chiếu miễn tô thuế các đạo ở tam kinh".[47] Tháng chín năm 1075 thời Liêu Đạo Tông "do Nam Kinh có nạn đói, miễn tô thuế một năm, xuất tiền lúa cứu giúp".[48] Triều Liêu cho cư dân sản xuất nông nghiệp biên nhập vào châu huyện, bao gồm nông dân tự canh có ít ruộng và điền hộ sống dựa vào đất đai của địa chủ. Bất kể địa vị kinh tế, họ đều là dân tự do được tính vào hộ khẩu quốc gia, đồng thời cũng có trách nhiệm lao dịch cho quốc gia. Điền hộ của chùa miếu phần nhiều là do địa chủ hay quan lại chuyển tặng cùng với đất đai, họ phải nộp thuế cho quốc gia và nộp tô cho chùa miếu.[4]:65

Súc mục nghiệp

Súc mục nghiệp thời Liêu rất phát đạt, kinh tế mục nghiệp của người Khiết Đan có được sự phát triển khá lớn.[49] Mục nghiệp là kế sinh nhai của người Khiết Đan, cũng là nguồn gốc khiến triều Liêu có vũ lực cường thịnh. Đương thời, từ phía bắc Âm Sơn đến lưu vực Lô Cù Hà, Thổ Hà, Hoàng Thủy đến Thát Lỗ Hà, Ngạch Nhĩ Cổ Nạp Hà luôn có các mục trường tốt. Các bộ lạc Khiết Đan và phụ thuộc như Trở Bốc, Ô Cổ, Địch Liệt, Hồi Cốt, Đảng Hạng chủ yếu tham gia vào du mục nghiệp. Dê, ngựa là tư liệu sinh hoạt chủ yếu của các dân tộc du mục như Khiết Đan: sữa và thịt là thực phẩm, da lông dùng làm trang phục và chăn, ngựa và lạc đà là công cụ giao thông trọng yếu. Trong chiến tranh và săn bắn, ngựa là công cụ không thể thiếu của người dân du mục, nhiều hộ người Hán cũng nuôi gia súc ít nhiều để cạnh tranh. Dê và ngựa cũng là những thứ mà triều đình Liêu trưng thu hoặc là cống phẩm từ các bộ lạc Khiết Đan cùng các thuộc quốc và thuộc bộ, là nguồn thu nhập quan trọng của triều Liêu, do vậy được tập đoàn thống trị xem trọng. Người Khiết Đan được tổ chức thành các bộ lạc và thạch liệt, tại bộ lạc thì nằm dưới sự quản lý của thủ lĩnh, được phân đất để sản xuất mục nghiệp, chịu phú dịch của bộ lạc và quốc gia, nếu không được triều đình và thủ lĩnh bộ lạc cho phép thì không thể tùy ý thoát ly khỏi bộ lạc gốc. Họ là người lao động chủ yếu trong sản xuất mục nghiệp, là thuộc dân của quý tộc bộ lạc.[4]:66

Thủ công nghiệp

Mâm sứ Liêu, thế kỷ XII

Ngành luyện sắt thời Liêu phát triển,[50][51] Các công cụ nông nghiệp, nấu ăn, mã cụ, thủ công làm bằng sắt khai quật được của triều Liêu ngang bằng với sản phẩm của Trung Nguyên. Liêu Đông là khu vực sản xuất sắt chủ yếu của triều Liêu, xúc tiến nghề luyện sắt của triều Liêu phát triển. Vào thời kỳ đầu, từng lấy nô lệ của 'hoành trướng' và đại tộc đặt ra 'hạt thuật thạch liệt', tham gia công việc rèn luyện sắt, 'hạt thuật' tức là sắt trong tiếng Khiết Đan. 'Hạt thuật thạch liệt' vào thời Liêu Thánh Tông do hộ khẩu đông và quan hệ sản xuất thay đổi, cải biên thành bộ, vẫn lấy sắt làm thuế. Thời Liêu, có ba nơi luyện sắt tại Thủ Sơn, Tam Truất Cổ Tư, Liễu Thấp Hà. Trong đó, Thủ Sơn nay thuộc An Sơn của Liêu Ninh, hoạt động khai mỏ và luyện kim ở đây bắt đầu từ thời Liêu[4]:69

Đồ sứ Liêu có địa vị quan trọng trong lịch sử phát triển của gốm sứ Trung Quốc, tạo hình đồ sứ có thể phân thành hai loại là kiểu Trung Nguyên và kiểu Khiết Đan; kiểu Trung Nguyên phỏng theo cách nung tạo ở Trung Nguyên, có các loại bát, mâm, chén, đĩa, hộp hay bình; kiểu Khiết Đan phỏng theo tập quán bản tộc, sử dụng cách nung tạo dùng bì hay gỗ, làm ra các vật dụng bình, nậm, khay, đĩa với tạo hình độc đáo.[52] Lò Hang Ngõa Diêu là di chỉ lò nung đồ sứ cổ lớn nhất đời Liêu được biết đến cho tới nay, có thể sản xuất ra đồ sứ men trắng, men đơn, tam thải cũng như các đồ sứ để dùng trong cung đình.[52] Các ngành thủ công nghiệp như mạ vàng bạc, nhuộm dệt, tạo mã cụ, làm đồ sứ, làm giấy đều hoàn bị, công nghệ tinh thâm.[52] "Yên ngựa Khiết Đan" cùng với "nghiên Đoan", "gấm Thục", "sứ Định" thậm chí được người Bắc Tống bình là "thiên hạ đệ nhất".[53] Khi khai quật các mộ quý tộc như "Mộ Trần quốc công chúa và phò mã", "mộ Da Luật Vũ Chi", phát hiện được những đồ bằng vàng và bạc tinh xảo đạp đẽ, phản ánh nét đặc sắc dân tộc và trình độ công nghệ cao độ của người Khiết Đan.[52]

Thương nghiệp

Với việc nông, mục, thủ công nghiệp phát triển, hoạt động trao đổi ngày một thường xuyên. Ngay từ thời Thái Tổ Da Luật A Bảo Cơ, người Khiết Đan đã xây dựng 'dương thành' ở bắc Thán Sơn, "lập các vụ để thông các dòng giao dịch". Về sau, lãnh thổ được mở rộng, thành phần kinh tế gia tăng, thương nghiệp tiếp tục phát triển hơn nữa. Sau khi Ngũ Kinh của Liêu được xây dựng hoàn tất, chúng trở thành các thành thị thương nghiệp trọng yếu của quốc gia.[4]:75 Giao lưu kinh tế giữa Liêu với các quốc gia và bộ tộc xung quanh phần nhiều tiến hành theo phương thức triều cống và hỗ thị. Do thương nghiệp phát triển, trong lãnh thổ Liêu xuất hiện tầng lớp thương nhân giàu có, họ buôn bán ở các châu huyện Ngũ Kinh hoặc qua lại giữa Liêu với các nước Ngũ Đại rồi Tống, thậm chí còn trở thành sứ thần đại diện cho Liêu xử sự việc giao thiệp, như thời Liêu Thái Tông, Hồi đồ sứ Kiều Vinh buôn bán ở Hậu Tấn, là đại diện cho thương nghiệp mậu dịch của Liêu, đồng thời cũng có thể đóng vai trò là sứ thần để cùng Hậu Tấn giao thiệp chính vụ. Quy Hóa châu ở Tây Kinh có Hàn Sư Huấn, cũng là thương nhân giàu có một phương.[4]:76

Thời Liêu, vật giá rất thấp, mặc dù có thuế muối và thuế rượu, song mức thuế ở các địa phương không giống nhau. Thương nghiệp mậu dịch phồn vinh xúc tiến kinh tế tiền tệ phát triển. Căn cứ theo tài liệu chép lại, vào thời cha của Da Luật A Bảo Cơ là Da Luật Tát Lạt Đích, người Khiết Đan bắt đầu đúc tạo tiền tệ. Tuy nhiên, lượng tiền tệ sử dụng không nhiều, sang thời Liêu Thế Tông, Thượng Kinh vẫn ở trong trạng thái giao dịch dùng vải làm trung gian. Các địa phương cũng dùng tiền tệ không giống nhau, như vào trước thời Thánh Tông thì tiền Liêu cực ít, sau thời Thánh Tông mới dần nhiều lên, song trong lưu thông tiền tệ, chúng vẫn chiếm số lượng rất ít, không đạt 2%, chủ yếu là tiền Tống và tiếp đến là tiền Đường, Ngũ Đại và tiền các triều khác; về giao dịch đối ngoại, chủ yếu là giao dịch các mặt hàng bổ sung cho nhau ở 'các trường' tại biên cảnh với Tống và Tây Hạ. Ngoài ra, Liêu cũng có qua lại mậu dịch với Nhật Bản, Cao Ly, đế quốc Abbas, Rus Kiev, Khách Lạt hãn quốc.[46]:150

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_Liêu http://www.britannica.com/EBchecked/topic/338833 http://images.gg-art.com/viewNews/index_b.php?news... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85024064 http://www.apu.ac.jp/~yoshim/B4.pdf http://www.chiculture.net/1702/html/1702c15.html http://www.jstor.org/stable/1005570 http://www.jstor.org/stable/25066819 http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/...